Kỹ thuật nuôi ngao thương phẩm cần chú ý đến bãi nuôi, giống, chăm sóc và quản lý để có hiệu quả kinh tế cao nhất. Kỹ thuật nuôi không phức tạp, chu kỳ nuôi ngắn có giá trị xuất khẩu.

Ngao là loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ có giá trị kinh tế cao, được nuôi ở nhiều tỉnh ven biển nước ta, mang lại hiệu quả cao trên vùng triều. Kỹ thuật nuôi không phức tạp, chu kỳ nuôi ngắn, đầu tư ít lại có giá trị xuất khẩu. Nuôi ngao còn là biện pháp tích cực bảo vệ nguồn lợi này và làm sạch môi trường đáy vùng triều.

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGAO

Họ Ngao có 40 loài thuộc 7 nhóm giống phân bố dọc bờ biển từ Bắc vào Nam. Vùng ven biển phía Bắc có Ngao dầu, Ngao mật… Ngao phân bố trên các bãi triều, trong các eo vịnh có đáy là cát pha bùn ( cát chiếm 70-80%), sóng gió nhẹ, có lượng nước ngọt nhất định chảy vào. Nếu đáy nhiều bùn, Ngao dễ bị chết ngạt, nếu đáy cát (100%) Ngao bị khô nóng.

ngao hoa
Ngao hoa – Ảnh Internet

Ngao thích nghi được nhiệt độ từ 5 đến 350C, ở khoảng 18-300C Ngao sinh trưởng tốt nhất. Giới hạn chịu nhiệt của Ngao là 430C, Ngao chết 50% ở nhiệt độ 440C và chết toàn bộ ở nhiệt độ 450C, ở nhiệt độ -2 đến -30C, Ngao chỉ chết khoảng 10% trong 3 tuần.

1. Phân bố:

Ngao phân bố trên các bãi biển, trong các eo vịnh có đáy là cát pha bùn (cát chiểm 60-80%), sóng gió nhẹ, có lượng nước ngọt nhất định chảy vào. Ở nơi đáy nhiều bùn ngao dễ bị chết ngạt, nơi đáy cát chiếm 100% ngao bị khô nóng.

  • Ngao sống ở trung, hạ triều cho đến độ sâu tới 10m ở đáy biển.
  • Ngao là động vật nhuyễn thể rộng nhiệt. Thích nghi được với nhiệt độ từ 5-350C, ở nhiệt độ 18-300C sinh trưởng tốt nhất. Giới hạn chịu nhiệt cao là 430C. Khi nhiệt độ lên tới 440C ngao chết 50%, ở 450C chết toàn bộ. Ở nhiệt độ 37,50C sống được 10,4 giờ, 400C sống được 5,3 giờ, 420C sống được 1,5 giờ. Khi nhiệt độ giảm xuống 00C, các tơ mang ngừng hoạt động. Ở nhiệt độ âm 2-30C sau 3 tuần chỉ chết 10%.
  • Ở độ mặn 19-26‰ ngao sinh trưởng tốt. Ngao có sức chịu đựng tốt ở tỷ trọng cao, ở trọng 1,029 chỉ có một số ít bị chết. Trong môi trường tự nhiên nếu độ mặn biến đổi đột ngột sẽ gây chết hàng loạt. Những vùng bị ảnh hưởng nước lũ kéo dài gây ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của ngao, có thể gây chết hàng loạt. Những vùng này thường không có ngao phân bố.
  • Ngao là loài sống đáy, chân phát triển để đào cát vùi mình xuống dưới. Để hô hấp và lấy mồi ăn ngao thò vòi nước lên mặt bãi hình thành một lỗ hình bầu dục màu vàng nhạt, nhìn lỗ có thể biết được chỗ ở của ngao. Vòi ngao ngắn nên không thể chui sâu, thường chỉ cách mặt đáy vài cm. Trời lạnh ngao xuống sâu hơn nhưng không quá 10cm (hình 4).
  • Hiện tượng ngao di chuyển nổi trong nước: Khi gặp biểu hiện môi trường không thích hợp, ngao có thể nổi lên trong nước và di chuyển tới vùng khác bằng cách tiết ra một túi nhầy hoặc một dải chất nhầy để giảm nhẹ tỷ trọng cơ thể và nổi lên được trong nước và theo dòng nước triều di chuyển tới nơi khác. Ngao có thể nổi lên ở độ cao 1,2m. Ngao thường di chuyển vào mùa hạ, mùa thu. Mùa hạ ngao sống ở vùng triều cao, bãi cạn chịu thời gian chiếu nắng dài làm cho bãi cát nóng lên ngao phải di chuyển theo nước triều rút xuống vùng sâu hơn. Mùa thu nhiệt độ hạ dần, gió thổi liên tục làm cho nhiệt độ giảm nhanh ngao không chịu được phải di chuyển xuống vùng sâu. Mặt khác, sự di chuyển của ngao cũng có quan hệ tới sinh sản. Khi ngao lớn tới 5-6cm ở giai đoạn sinh dục thành thục ngao thường di chuyển nhiều.

Đặc điểm này phải được hết sức chú ý, giữ không cho ngao đi mất. Người ta thường dùng dây cước sợi 3 x 3 căng ở đáy 3cm theo chiều vuông góc với đường nước triều rút, dây căng sẽ cắt đứt tuyến nhầy của ngao và ngao sẽ bị chìm xuống đáy. Phương pháp này rất có hiệu quả với ngao cỡ 3-5cm.

2. Tập tính ăn:

Phương thức bắt mồi ăn của ngao là bị động. Khi triều dâng ngao thò vòi lên cát để lọc mồi ăn, chọn những hạt, vụn hữu cơ có cỡ to nhỏ thích hợp là được. Thức ăn chủ yếu của ngao là tảo khuê, các mảnh vụn và chất vẩn cặn hữu cơ.

3. Sinh trưởng:

Ngao dầu 1 tuổi có khối lượng 5-7g, 2 tuổi có khối lượng 12g.

Thời gian lớn nhanh vào tháng 4-9, lúc này nhiệt độ thích hợp. Hai năm đầu ngao lớn nhanh sau chậm dần. Ngao dầu có cỡ cá thể lớn tới 13cm, cao 11cm, dầy 5,8cm.

II. KỸ THUẬT NUÔI NGAO THƯƠNG PHẨM

1/ Chọn và chuẩn bị bãi nuôi

Bãi nuôi ngao thường là bãi triều, các eo vịnh có sóng nhỏ, nơi có nguồn nước ngọt nhất định chảy vào. Đáy là cát bùn, độ mặn từ 15-25‰, thời gian phơi bãi không quá 4-5 giờ/ngày.

Cải tạo bãi: Vệ sinh, thu gom đá sỏi, rác… Khi triều xuống cần cày xới mặt bãi sâu khoảng 5-10cm, san phẳng mặt bãi để ngao giống dễ dàng chui xuống, tránh bị nước triều cuốn đi.

Tạo luống: Luống có cùng hướng với dòng chảy của thủy triều khi lên, xuống. Mỗi luống rộng 1,5m, giữa hai luống có lối đi để tránh dẫm lên bãi sau khi thả giống. Những vùng nuôi ngao có thời gian phơi bãi trên 5 giờ/ngày cần có biện pháp giữ nước, tạo độ ẩm cho bãi nuôi.

Quây lưới quanh bãi: Dùng lưới có cỡ mắt lưới 2a = 1cm, cao 80cm. Dùng cọc tre, gỗ để giăng lưới. Lưới vùi sâu xuống mặt bãi khoảng 30cm, cao so với mặt bãi từ 60-70cm.

2/ Kỹ thuật Chọn thả giống ngao hoa

Chọn giống: Ngao giống kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng, rõ nguồn gốc xuất xứ, không bị nhiễm bệnh, có mùi tanh tự nhiên.

Thời vụ nuôi: Có thể thả nuôi quanh năm, nhưng tập trung chủ yếu từ tháng 4 – 6 hoặc tháng 9 – 10 dương lịch hàng năm.

Cỡ giống thả: Tuỳ theo điều kiện bãi nuôi, khả năng đầu tư, trình độ thâm canh để lựa chọn cỡ giống và mật độ nuôi phù hợp.

  • Đối với bãi triều ít chịu ảnh hưởng của sóng gió (bãi êm), cỡ giống thả 1.000 – 2.000 con/kg, mật độ 400 – 500 con/m2.
  • Đối với bãi triều sóng gió nhẹ, cỡ giống thả 800 – 1.000 con/kg, mật độ 300 – 400 con/m2.
  • Đối với bãi triều sóng gió lớn, cỡ giống thả 200 – 500 con/kg, mật độ 200 – 250 con/m2.

Cách thả giống: Ngao giống sau khi vận chuyển từ nơi khác về để vào nơi râm mát để cân bằng nhiệt độ trước khi thả xuống bãi nuôi. Không thả giống khi trời đang mưa. Không nên để ngao trong bao qua đêm, nếu gặp mưa, sau khi thả ngao sẽ hao hụt lớn.

Thời gian thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát, bằng cách dùng thuyền chở ngao giống rắc đều lên mặt bãi, cắm tiêu tránh thả chồng lên nhau, tốt nhất thả giống trước khi triều lên ngập bãi.

3/ Chăm sóc quản lý:

Quá trình nuôi thường gặp hiện tượng ngao bị chết hàng loạt, nguyên nhân chủ yếu là:

* Nhiệt độ cao xuất hiện vào tháng 7-8, lúc này ngao giống đang còn yếu.

* Vùng bãi đã nuôi 3 mùa ngao, chất hữu cơ lắng đọng tăng lên tới 5-6 lần so với bình thường, có thể thấy lớp cát đen dày tới vài cm và có mùi khí thối H2S, do vậy phải bừa lật mặt đáy lên phơi bãi.

Các yếu tố khác có thể dẫn tới làm chết hàng loạt là tỷ trọng thay đổi đột ngột, vùng nước bị ô nhiễm, mật độ dày…

4. Thu hoạch:

Thu hoạch vào mùa xuân, thu dễ bảo quản, thu hoạch vào mùa hè nhiệt độ cao khó bảo quản.

Có các phương pháp thu hoạch sau:

(1) Lợi dụng tính hướng cọc gỗ của ngao để thu. Trên bãi cứ cách 1,5m đóng một cọc gỗ có đường kính 4-5cm, dài 65-70cm. Sau một thời gian ngao sẽ tập trung ở xung quanh cọc gỗ với bán kính 30cm, lúc này bắt rất thuận tiện.

(2) Dùng con lăn đá, khi con lăn lăn qua rồi ngao ở dưới bị ép sẽ phun nước lên, từ chỗ có nước phun có thể bắt ngao.

(3) Dùng chân đạp trên nước nông để bắt.

Kết luận

Bài viết trên là những kiến thức cơ sở để bà con tham khao và vận dụng vào trong quá trình nuôi ngao để đạt hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh kỹ thuật nuôi thì các yếu tố như chất lượng con giống cũng quyết định đến hiệu quả của mô hình nuôi trồng.

Thủy Sản NGỌC THỦY là cơ sở cung cấp ngao hoa giống chất lượng, Ngọc Thủy đã trở thành trại giống thủy sản được các hộ nuôi trồng đặt niềm tin. Với 7 cơ sở sản xuất giống, Ngọc Thủy có đầy đủ tiềm lực để cung cấp con giống số lượng lớn nhỏ đến bà con. Hơn hết, các trại giống Ngọc Thủy nằm trong khu vực Nha Trang – Ninh Hòa, vựa giống Thủy sản chất lượng của cả nước.

Tham khảo Ngao hoa giống chất lượng tại Ngọc Thủy: https://thuysanngocthuy.com/ngao-hoa-giong